Những câu hỏi về các căn bệnh thường gặp

Có thể lý giải về độc tính và phản ứng phụ của thuốc đông y như thế nào?

Phần lớn mọi người đều cho rằng dược tính của thuốc đông y thường bình hòa không có độc tính và không có tác dụng phụ khi dùng kéo dài. Điều này hoàn toàn sai lầm! Bất cứ một loại dược vật nào mà chúng ta sử dụng không hợp lý đều có thể gây độc và có phản ứng phụ cả. Ví dụ như nhân sâm là một loại thuốc đại bổ nguyên khí, nếu sử dụng trong trường hợp một người đang sốt cao, miệng đắng, da lở loét, đại tiện táo bón… thì sẽ có thể làm bệnh trầm trọng hơn. Vì vậy trước khi sử dụng loại thuốc đông y nào đều phải có ý kiến của thầy thuốc đông y.

Gần đây một số báo cáo trên thế giới cho thấy hàm lượng acid Arisolochic có trong Quan Mộc thông (Caulis Aristolochiae Manshuriensis) có thể gây suy thận. Nên biết rằng loại thường được dùng để kê đơn là Xuyên Mộc thông (Caulis Clematidis Armandii), đây là 2 loài khác nhau. Ngoài ra, đông y còn sử dụng một số thuốc có độc tính trong điều trị một số trường hợp, ví dụ như Phụ Tử (Radix Aconiti Lateralis Preparata) và Xuyên Ô (Radix Aconiti) được dùng trong điều trị thấp khớp, những thuốc này đều có sự theo dõi chặt chẽ về liều lượng, cách thức bào chế để tránh các tác dụng có hại. Vì thế việc giám sát chặt chẽ chất lượng thuốc đông y là rất quan trọng.

Người ta cho rằng các loại thuốc đông y không có tác dụng phụ và sử dụng chúng trong một thời gian dài sẽ không gây tổn hại cho sức khỏe. Và ngay cả khi dùng thuốc không phù hợp với các triệu chứng, nó cũng không làm hại nhiều. Điều này có đúng không ?

Trong điều trị bệnh, thuốc đông y có khả năng khôi phục lại sự cân bằng âm dương của cơ thể thông qua thuộc tính khác nhau của nó. Tất cả các loại thuốc đều có thuộc tính riêng và có một mức độ độc tính nhất định. Sử dụng không đúng sẽ gây tác dụng phụ cho cơ thể và làm rối loạn cân bằng âm dương.

Có phải thuốc đông y luôn là thuốc sắc ở dạng lỏng và có vị đắng hay không?

Thuốc đông y thường được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào cách chế biến. Các hình thức phổ biến nhất là: Thuốc thang (sắc ở dạng lỏng), cao, đơn (viên tròn nhỏ), hoàn (viên tròn), tán (dạng bột), dạng xi-rô, dạng cốm, rượu, viên dẹt… Trong ứng dụng lâm sàng, các hình thức thích hợp sẽ được quy định theo tính chất của bệnh.

Đông y sử dụng các loại thảo mộc để điều trị bệnh nhưng không phải trên cơ sở của các thành phần hóa học của chúng. Vậy thì, dựa vào những nguyên tắc gì để điều trị bệnh trong đông y?

Đây là sự khác biệt lớn giữa y học phương Tây và y học phương Đông. Nói chung, phương pháp điều trị của đông y tập trung vào tình trạng tổng thể của cơ thể, chứ không phải là xác định tác nhân gây bệnh cụ thể gây ra tình trạng đó.

Dựa vào những nguyên tắc chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, thầy thuốc sẽ khám và quy nạp tất cả các tính chất, vị trí, sự thay đổi bệnh lý, cũng như quá trình của bệnh vào tám cương lĩnh (bát cương) đó là: âm, dương, biểu (bên ngoài), lý (bên trong), hàn, nhiệt, hư (thiếu hụt, suy yếu) và thực (dư thừa, ứ trệ). Sau đó, họ dựa vào một số thuộc tính của thảo dược để soạn thảo các đơn thuốc thích hợp. Thuộc tính của mỗi loại thảo dược dựa vào: Tính, vị, thăng, giáng, phù, trầm, quy kinh.

Tính (tứ khí): Lạnh, nóng, ấm, và mát;

Vị: Cay, ngọt, chua, đắng, mặn;

Tính chất di chuyển: Thăng (đi lên), giáng (đi xuống), phù (nổi, đi ra ngoài), trầm (chìm, đi vào trong);

Quy kinh: Khả năng đi vào một kinh mạch nhất định (đích tác dụng).

Thầy thuốc sử dụng các thuộc tính của các loại thảo mộc để kích thích sự tự phục hồi năng lượng của cơ thể, và làm cho cơ thể trở lại trạng thái cân bằng. Tính chất chữa bệnh của các thuốc được xác định qua nhiều năm tích lũy kinh nghiệm.

Dựa vào thuộc tính của các loại thảo dược để chống lại thuộc tính đối lập của bệnh, và thực hiện những thay đổi cơ thể đến một sự cân bằng mới. Ví dụ, các loại thảo mộc có thể điều trị hoặc loại bỏ nhiệt hoặc hội chứng nhiệt, chủ yếu có tính chất lạnh hoặc mát, chẳng hạn như hoàng cầm hoặc bản lam căn. Các loại thảo mộc có thể điều trị hoặc loại bỏ hội chứng hàn, chủ yếu có tính chất ấm hoặc nóng, chẳng hạn như phụ tử và gừng khô.

Trong sách Thần Nông bản thảo (sách cổ điển nói về dược thảo) cho rằng: “Trị hàn dùng thuốc nhiệt, trị nhiệt dùng thuốc hàn”. Sách Nội kinh-Tố vấn cũng nói: “Hàn thì dùng nhiệt, nhiệt thì dùng hàn”. Đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc quy định sử dụng thuốc để điều trị trong đông y.

Một số người sau khi tẩm bổ bằng thuốc đông y lại xuất hiện một số triệu chứng bất lợi, ví dụ như chảy máu mũi, trường hợp này có thể cho là khi cơ thể hư yếu thì không thể tẩm bổ có phải không?

Nguyên tắc trị bệnh của đông y là “hư thì bổ, thực thì tả”. Bất luận là điều trị bệnh hay là tẩm bổ thường ngày, đều phải chú ý là hư chứng (hư nhược, suy yếu) thì mới dùng phương pháp tẩm bổ, thực chứng (dư thừa, ứ đọng) thì không nên tẩm bổ.

Căn cứ vào tổn thương của âm, dương, khí, huyết, mà thuốc bổ đông y có thể chia thành 4 loại tác dụng: ích khí, bổ huyết, tư âm, bổ dương. Nếu sử dụng phép bổ không phù hợp thì sẽ xuất hiện cái gọi là “hư bất thụ bổ”. Nghĩa là cơ thể hư suy vẫn không thể hấp thụ được chất bổ.

Ví dụ như một trường hợp bệnh nhân âm hư hỏa vượng, với chứng trạng miệng khô lưỡi táo, hoa mắt chóng mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân và vùng giữa ngực nóng, thì phải dùng thuốc có tính vị cam hàn (ngọt, lạnh) để tư âm thanh nhiệt, trường hợp này nếu như dùng thuốc bổ có tính tân ôn (cay, nóng) và trợ dương, sẽ càng giúp cho hỏa làm tổn thương âm tất sẽ dẫn đến triệu chứng càng nặng hơn, đó là xuất hiện hiện tượng “hư hỏa” bốc lên trên, làm cho chảy máu mũi là vậy.