Những câu hỏi thường gặp về đông y

1.Có phải điều trị bệnh theo đông y cần thời gian dài hơn?

Bên cạnh lợi thế trong hỗ trợ điều trị các bệnh mãn tính như tiểu đường, ung thư, đông y còn có thể điều trị tốt một vài trường hợp bệnh cấp tính, ví dụ như trường hợp hôn mê ở các bệnh nhân bị đột quỵ có thể điều trị khỏi bằng châm cứu hoặc bằng một loại thuốc được làm từ sỏi mật của của một loài bò (ngưu hoàng)… Cũng như tây y, liệu trình điều trị của đông y vẫn phụ thuộc vào tình trạng của từng cá thể, bệnh mãn tính thì cần nhiều thời gian để điều trị, còn đối với bệnh cấp tính hay bệnh nhiễm trùng, bệnh nhân có thể hồi phục trong thời gian ngắn.

2.Có phải thuốc đông y luôn luôn có vị đắng?

Không phải như vây, nói một cách đơn giản là tính vị của thuốc đông y thường chia thành 5 loại gọi là “ngũ vị” bao gồm vị cay, vị ngọt, vị chua, vị đắng và vị mặn. Vị của thuốc và hiệu năng của thuốc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau:

  • Vị cay: có tác dụng phát tán, hành khí hoạt huyết (như xuyên khung);
  • Vị ngọt: có tác dụng bổ ích, hoãn cấp (như cam thảo);
  • Vị chua: có tác dụng thu liễm, cố sáp (như ngũ vị tử);
  • Vị đắng: có tác dụng thanh nhiệt, giáng tiết (như hoàng liên);
  • Vị mặn: có tác dụng nhuyễn kiên, tán kết, tả hạ (như mang tiêu);

3.Châm cứu là gì?

Châm và cứu là hai phương pháp điều trị khác nhau.

Châm là dùng kim bằng kim loại châm vào các điểm được xác định trên da, và thực hiện các thủ pháp kích thích, xoay kim theo các phương pháp bổ tả khác nhau.

Cứu pháp chủ yếu là dùng hơi nóng (và khí thuốc) của điếu ngải hoặc mồi ngải (chất liệu làm từ lá cây ngải cứu) được đốt cháy để tác động lên các điểm được xác định trên da để làm ấm và thông khí huyết.

Những điểm trên da này gọi là huyệt vị châm cứu. Việc chọn huyệt và vị trí để châm cứu tùy thuộc vào các loại bệnh khác nhau, phương pháp châm và phương pháp cứu đều thông qua kích thích lên các huyệt vị nhất định trên cơ thể để có tác dụng sơ thông kinh lạc, điều tiết tạng phủ, hành khí hoạt huyết… từ đó đạt đến sự lập lại cân bằng cho cơ thể, nâng cao sức đề kháng và tiêu trừ bệnh tật.

Phương pháp châm và cứu đều có bổ và tả, phương pháp cứu có sở trường về làm ấm, bồi bổ cơ thể và thông huyết mạch. Phương pháp châm có hiệu quả tương đối nhanh, phương pháp cứu có hiệu quả chậm nhưng lâu dài, hai phương pháp này thường được phối hợp sử dụng để tăng cường hiệu quả điều trị. Đối với một số huyệt vị cấm dùng phương pháp châm ví dụ như huyệt thần khuyết (lỗ rốn) hoặc một số huyệt hạn chế châm thì có thể dùng phương pháp cứu để thay thế.

4.Có phải thầy thuốc đông y chỉ dùng phương pháp “bắt mạch” để chẩn đoán các loại bệnh?

Bắt mạch đóng một vai trò quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào bắt mạch thì chúng ta chỉ biết được một phần của tình trạng bệnh lý, giúp cho ta có định hướng trong chẩn đoán mà thôi. Ví dụ trường hợp phụ nữ có thai thì có “mạch hoạt”, tuy nhiên “mạch hoạt” cũng thường gặp ở bệnh nhân có trường vị bị đàm thấp…

Do đó để có một chẩn đoán chính xác, cần thiết phải kết hợp 4 phương pháp khám bệnh, mà đông y gọi là “Tứ chẩn” đó là:

  • Vọng- nghĩa là thầy thuốc sẽ quan sát thần, sắc, hình thái, mắt, mũi, môi, lưỡi… của bệnh nhân để biết được tình hình bệnh tật bên trong cơ thể biểu hiện ra bên ngoài như thế nào;
  • Văn- nghĩa là nghe và ngửi, thầy thuốc sẽ nghe tiếng nói, tiếng thở, tiếng ho, tiếng nấc… chú ý đến mùi của hơi thở, mũi, miệng, các chất thải như đờm, phân, nước tiểu để có thể phân biệt được tình trạng của bệnh;
  • Vấn: Hỏi bệnh nhân về bệnh sử, các triệu chứng của bệnh, chú trọng đến hỏi về mồ hôi, hàn, nhiệt …
  • Thiết: bao gồm bắt mạch và sờ nắn để biết vị trí và tính chất của bệnh, thường xem ở da thịt, tay chân, ngực và bụng…

Như vậy, thầy thuốc đông y cũng cần phải tổng hợp đầy đủ các dấu chứng, triệu chứng toàn thân rồi mới đưa ra kết quả chẩn đoán.

5.Tại sao thầy thuốc đông y có thể sử dùng nhiều loại đơn thuốc khác nhau để điều trị một loại bệnh?

Thứ nhất, biện luận điều trị của đông y nhắm vào yếu tố cơ địa của từng cá nhân, vì vậy việc lựa chọn loại thuốc cũng như liều lượng trong đơn thuốc có thể tăng hoặc giảm là tùy theo từng cá nhân.

Thứ hai, theo quan điểm của đông y, những gì chúng ta gọi là bệnh là đại diện cho toàn bộ quá trình của biến đổi bệnh lý, trong khi một hội chứng sẽ phản ánh bệnh lý của bệnh đó ở giai đoạn nhất định. Trong đông y, hội chứng bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng mất cân bằng theo tiêu chuẩn chẩn đoán của đông y, thường được gọi là thể bệnh. Thầy thuốc đông y sẽ điều trị theo một hội chứng (thể bệnh) của bệnh đó thay vì điều trị bệnh.

Ví dụ, bệnh cảm mạo, theo đông y gồm có các hội chứng (thể bệnh): thể phong hànthể phong nhiệt hoặc thể cảm mạo do cơ thể suy yếu, phương án điều trị tương ứng với mỗi thể bệnh sẽ khác nhau. Cụ thể: thể phong hàn thì dùng phương án khứ phong tán hàn, thể phong nhiệt thì dùng phương án khứ phong thanh nhiệt, thể cảm mạo do hư suy thì dùng phương án phù chính khứ tà, tăng cường ích khí cố biểu trị liệu. Vì vậy các đơn thuốc cũng sẽ khác nhau để điều trị “bệnh cảm mạo” này.

6.Các loại thảo dược được cho là có 4 tính: lạnh, mát, ấm, và nóng. Vậy thực phẩm trong chế độ ăn uống hàng ngày có 4 tính chất như thế không?

Thuốc và thực phẩm đều có nguồn gốc giống nhau và cả hai đều có thể được sử dụng như thuốc. Trên thực tế, hầu hết các loại thực phẩm có tính bình. Tuy nhiên một số thực phẩm cũng có thể được phân loại thành hàn, lương, ôn, và nhiệt.

  • Thực phẩm có tính hàn bao gồm măng, chuối, mướp đắng, ngao, cua, bưởi, tảo bẹ, rau diếp, dưa, thơm, hồng, muối, rong biển, khế, mía, hạt dẻ nước, dưa hấu và củ sen…
  • Thực phẩm có tính nhiệt bao gồm hạt tiêu, ớt, quế, hạt bông, gừng và hẹ…

Điều quan trọng là nên biết về các tính của thực phẩm bởi vì thực phẩm với tính năng khác nhau sẽ tác động lên cơ thể con người theo những cách khác nhau và ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe. Nếu một người bị bệnh thấp khớp thể hàn, thường đau khớp, đặc biệt đau tăng vào mùa đông thời tiết lạnh, thì nên ăn thực phẩm có tính ôn hoặc nhiệt sẽ làm giảm đau đáng kể. Hoặc nếu một người thường bị phát ban làm cho da xấu đi khi tiếp xúc với nhiệt, thì nên ăn loại thực phẩm có tính mát và lạnh để làm giảm triệu chứng.

7.Đông y sử dụng các loại thảo mộc để điều trị bệnh nhưng không phải trên cơ sở của các thành phần hóa học của chúng. Vậy thì, dựa vào những nguyên tắc gì để điều trị bệnh trong đông y?

Đây là sự khác biệt lớn giữa y học phương Tây và y học phương Đông. Nói chung, phương pháp điều trị của đông y tập trung vào tình trạng tổng thể của cơ thể, chứ không phải là xác định tác nhân gây bệnh cụ thể gây ra tình trạng đó.

Dựa vào những nguyên tắc chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, thầy thuốc sẽ khám và quy nạp tất cả các tính chất, vị trí, sự thay đổi bệnh lý, cũng như quá trình của bệnh vào tám cương lĩnh (bát cương) đó là: âm, dương, biểu (bên ngoài), lý (bên trong), hàn, nhiệt, hư (thiếu hụt, suy yếu) và thực (dư thừa, ứ trệ). Sau đó, họ dựa vào một số thuộc tính của thảo dược để soạn thảo các đơn thuốc thích hợp. Thuộc tính của mỗi loại thảo dược dựa vào: tính, vị, thăng, giáng, phù, trầm, quy kinh.

Tính (tứ khí): lạnh, nóng, ấm, và mát

Vị: Cay, ngọt, chua, đắng, mặn,

Tính chất di chuyển: thăng (đi lên), giáng (đi xuống), phù (nổi, đi ra ngoài), trầm (chìm, đi vào trong).

Quy kinh: khả năng đi vào một kinh mạch nhất định (đích tác dụng).

Thầy thuốc sử dụng các thuộc tính của các loại thảo mộc để kích thích sự tự phục hồi năng lượng của cơ thể, và làm cho cơ thể trở lại trạng thái cân bằng. Tính chất chữa bệnh của các thuốc được xác định qua nhiều năm tích lũy kinh nghiệm.

Dựa vào thuộc tính của các loại thảo dược để chống lại thuộc tính đối lập của bệnh, và thực hiện những thay đổi cơ thể đến một sự cân bằng mới. Ví dụ, các loại thảo mộc có thể điều trị hoặc loại bỏ nhiệt hoặc hội chứng nhiệt, chủ yếu có tính chất lạnh hoặc mát, chẳng hạn như Hoàng cầm hoặc bản lam căn. Các loại thảo mộc có thể điều trị hoặc loại bỏ hội chứng hàn, chủ yếu có tính chất ấm hoặc nóng, chẳng hạn như phụ tử và gừng khô.

Trong sách Thần Nông bản thảo (sách cổ điển nói về Dược Thảo) cho rằng: “trị hàn dùng thuốc nhiệt, trị nhiệt dùng thuốc hàn.” Sách Nội kinh-Tố vấn cũng nói: “Hàn thì dùng nhiệt, nhiệt thì dùng hàn”. Đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc quy định sử dụng thuốc để điều trị trong Đông y.